'Những thành kiến hoá thạch' về phái nữ qua chữ viết (bộ nữ)

Ngày đăng: 28/06/2012 00:00:00

Nếu chúng ta chỉ nghe đọc hay viết các chữ đẹp hay mỹ (mỹ nhân - người đẹp, mỹ cảnh - cảnh đẹp) theo mẫu tự La Tinh thì không thấy vết tích hay nhận ra phái nữ hay phái nam; tuy nhiên khi viết chữ Hán liên hệ ra thì tình hình lại khác hẳn: các chữ Hán trên ngàn năm nay đã mang trong đó một thành kiến xem thường phái nữ (thành kiến hoá thạch - fossilised prejudice). Tiếng Việt có tiếng cái, một dạng chữ Nôm dùng cái 丐 cho gái và cái, chỉ giống cái và sự lớn hơn hết (đường cái). Khuynh hướng chỉ vật thể lớn nhất (cửa cái, ngón cái) trong tiếng Việt cùng với phái nữ (con dại cái mang, cọp cái) rất khác với khuynh hướng chỉ sự đẹp trong tiếng Hán dựa vào bộ nữ 女 . Ít người biết rằng các từ như nô (lệ), tham lam, ganh ghét, đố kỵ, hiềm nghi, dâm (dật), gian (tà), dấu (diếm), lười (biếng), nịnh (hót) … đã từng được ‘liên kết’ đến phụ nữ qua các chữ Hán truyền thống. Bài viết này sẽ đưa ra một số dữ kiện ngôn ngữ cho thấy ‘thiên kiến’ về phái nữ đã hoá thạch trong tiếng Hán. Giọng Bắc Kinh/BK sẽ được ghi bằng hệ thống pinyin thông dụng hiện nay, không nên lầm số ghi thanh điệu với số ghi phụ chú - như số 1 - đặt sau một âm hay chữ như jian1/ jiān so với ngày1 . Vấn đề kỳ thị giới tính thật ra không đơn giản: một trường hợp đáng ghi nhận ở đây là bà Hillary Rodham (một luật sư tranh đấu cho nữ quyền), sau khi lấy Bill Clinton (cựu Tổng Thống Mỹ thứ 42, 1993-2001) không theo truyền thống đổi tên thành Hillary Rodham Clinton và sau đó cũng trở thành Hillary Clinton (đương kiêm Ngoại Trưởng Mỹ/2012).


 


1. Giới thiệu tổng quát


 


Tiếng nói con người phản ánh phần nào văn hoá cộng đồng, do đó trong một ngôn ngữ hầu như ta luôn tìm thấy phần nào ảnh hưởng của giới tính cũng như các vết tích của xã hội truyền thống. Tiếng Anh có các cách dùngmanpower (nhân lực), mankind (con người, nhân loại),  postman/mailman (người đưa thư, nhưng lại dùng man là đàn ông), chairman (tổng giám đốc, cũng dùng danh từ man) hay the man in the street (người ngoài đường/người dân bình thường, cũng dùng danh từ giống đực man), policeman (cảnh sát), Congressman (dân biểu quốc hội), statesman (chính khách, nhà chính trị/chính trị gia) ... đều cho thấy sự phân biệt giới tính trong ngôn ngữ hàng ngày1; nói cách khác là có khuynh hướng đặt phái nam trên hết. Tiếng Pháp cũng có các từ  (le) docteur (bác sĩ, giống đực/masculin),  (le) professeur (giáo sư, cũng là giống đực) ... như vậy có phải các ngành nghề này chỉ dành cho đàn ông hay đàn bà không làm được hay sao? Còn nếu muốn chỉ đàn bà thì có thể đổi docteur thành (la) docteuse, và (la) professeuse ... So với cách thành lập từ chỉ phụ nữ trong tiếng Anh như


 


Prince (hoàng tử)                    princess (công chúa)


Author (tác giả)                       authoress (nữ tác giả)


Actor (nam diễn viên)             actress (nữ diễn viên)


Poet (nam/thi sĩ)                      poetess (nữ thi sĩ)


Hero (nam/anh hùng)              heroine (nữ anh hùng)


Host (nam/chủ nhà/chủ sự)     hostess (nữ chủ sự)


Heir (người thừa kế)               heiress (người phụ nữ thừa kế)


...v.v...


 


Thành ra cần phải có những hình vị (morpheme) đặc biệt để chỉ phụ nữ hay từ kép (ghép, compound) như trong tiếng Việt - để ý là chủ nhà, chủ sự, thi sĩ ... thường hàm ý đàn ông thay vì đàn bà. Đây chính là ‘hiện tượng không cân xứng’ (asymmetry) trong các từ dùng chỉ đàn ông so với đàn bà vì chữ chỉ đàn ông phải thêm vào hay thay đổi để chỉ đàn bà (đi sau, hàm ý phụ thuộc hay không là thành phần chính quy). Thí dụ như các cụm danh từ nữ anh hùng 女英雄, nữ thi sĩ 女詩人 (nữ thi nhân), nữ diễn viên 女演員 ...  thì tiếng Việt và tiếng Hán phải ghép chữ nữ vào trước các danh từ chính (hàm ý phái nam có trước). Đây là một trong những lý do mà một số vị ủng hộ thuyết nam nữ bình quyền (feminist) không hài lòng cho lắm về hiện tượng dùng ngôn ngữ nói trên (không cân xứng, xem trọng phái nam so với phái nữ ...). Sự mất cân xứng còn thể hiện khi nhìn rộng ra xem các cách nói chuyện thường ngày như Bà Trọng (gọi theo tên chồng),  (vì chồng dạy học, là Thầy), Bà Đạt (Đạt là tên con trai lớn) ... Tương ứng với cách xưng hô Mrs. Brown (Bà Brown, Brown là tên chồng) trong tiếng Anh, không những thế họ của người phụ nữ khi lấy chồng cũng phải đổi theo họ chồng


 


Con gái là con người ta


Con dâu mới thật mẹ cha mua về (ca dao Việt Nam)


 


Thứ tự chữ (word order) cũng thường đặt phái nam trước như


 


Phụ mẫu 父 母          cha mẹ2


Nam nữ 男女           trai gái


Phu thê 夫 妻           chồng vợ


...v.v...


 


Còn nhiều vấn đề liên hệ như tư tưởng của Khổng học và mức độ thâm nhập của các truyền thống phong kiến như tam tòng tứ đức 三从四德 ... xác định ‘nhiệm vụ’ của phái nữ trong xã hội. Thành ngữ (Hán Việt) trong dân gian cũng nói lên phần nào vai trò truyền thống của phái nữ như nam canh nữ chức (đàn ông thì làm việc ngoài đồng ruộng, đàn bà thì thêu thùa may vá) hay nam ngoại nữ nội ... Câu nói gả con cho ai (tự điển Việt Bồ La/1651) thì thường chỉ con gái ‘theo về’ nhà chồng ... Ngay cả những nhận định khắc nghiệt về giá trị xã hội như nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô (một trai thì nói có, mười gái thì nói không) ... Tuy nhiên bài này chỉ giới hạn vào cấu trúc của một số chữ Hán đáng chú ý mà thôi.


 


2. Các chữ Hán dùng bộ nữ


 


2.1 Chữ/bộ nữ 女


 


Nữ là con gái, cũng là một bộ thủ (bộ 38) trong 214 bộ thủ chữ Hán. Đây là trường hợp đáng xem xét kỹ hơn vì trong các bộ thủ ngày trước chỉ có bộ nữ chứ không có3 bộ nam 男, thêm một dữ kiện về ‘hiện tượng không cân xứng’ trong ngôn ngữ. Giáp cốt văn cho thấy chữ nữ tượng hình, hình của người đàn bà ngồi quỳ (kiểu ngồi xưa) với hai tay để trước ngực:


 



Giáp cốt văn (chữ nữ)  - xem thêm chi tiết trang http://www.chineseetymology.org/CharacterEtymology.aspx?submitButton1=Etymology&characterInput=%E5%A5%B3 các chữ Hán cổ sau trích từ tự điển trên mạng http://www.zdic.net/zd/zi/ZdicE5ZdicA5ZdicB3.htm


 



 


 


Nếu hai chữ nữ  女 hợp với nhau (ngang nhau)  奻  thì thành một chữ mới là noạn (nuán hay nuan2 BK) nghĩa là cãi nhau (tranh tụng), đây là chữ hiếm với tần số dùng là 16 trên 171894734 - các tần số dùng/tần suất trích dẫn trong bài này là từ thống kê trang http://www.chinalanguage.com/dictionaries/?pageID=CharDict/Query:Pinyin . Nếu ba chữ nữ hợp lại thì thành chữ gian 姦 (ác tà, jiān/jian1 BK) với tần số dùng là 2173 trên 175203003; một chữ dùng tương đương là 奸 dễ nhận ra hơn với thành phần hài thanh là *gan/kan 干 - chữ này rất thông dụng với tần số dùng là 25547 trên 434717750 .


 



 


 


Chữ gian  姦 có lâu đời hơn chữ gian 奸(giản thể), tuy nhiên hàm ý (tà, gian ác) của chữ này khá rõ nét khi ba người nữ họp (ngồi) với nhau!



Để ý nếu hai chữ nữ hợp lại (trên dưới) thì lại có nghĩa là đẹp hay yêu 妖 (quái lạ/TV). Để diễn tả hình dáng đẹp, khuynh hướng dùng bộ nữ (phái đẹp)4 để tạo ra chữ mới rất rõ nét trong vốn từ Hán - như tự điển Khang Hy có khoảng 90 chữ khác nhau cùng nghĩa là đẹp như 嫵 (vũ, cũng như 娬) 嫣 (yên) 媚 (mị) 姣 (giảo) 姚 (diêu)  妖 (yêu) 姱 (khoa) 娥 (nga) 婉 (uyển) 媛 (viện) 嬋 (thiền) 妍 (nghiên, cũng như 姸) 嬿 (yến) 嬈(nhiêu) 娟 (quyên) ...v.v... Đây là các chữ lấy từ Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, có khoảng 15 chữ nghĩa là đẹp (xinh) so với 148 chữ trong bộ nữ, hay là khoảng trên 10% rất phù hợp với số phần trăm số chữ với nghĩa là đẹp trong tự điển Khang Hy (tổng số chữ trong bộ nữ là 866, do đó 90/866 = 10.4%). Tiếng Việt phân biệt các trường hợp đẹp trai, đẹp gái và khi có tuổi thì là đẹp lão.


 


2.2 Tham 㜗


 


Chữ hiếm tham 㜗 (Unicode 3717) đọc là 倉含切 thương hàm thiết, âm tham (theo Tập Vận/TV), giọng BK là căn - thành phần hài thanh/HT là 參 (tham, xam, sâm). Tham là ham muốn, theo Thuyết Văn Giải Tự/TVGT là cùng nghĩa với lam 婪, cũng thường dùng chung là tham lam. Chữ tham 貪 bộ bối thường dùng hơn so với tham bộ nữ.


 


2.3 Lam 婪


 


Lam nghĩa là ham muốn, lam hàm 婪酣 là tham ăn. Thành phần HT là lâm 林.


 


2.4 Lạm 㜮


 


Lạm 㜮 là chữ hiếm (Unicode 372E), hàm ý quá độ, quá mức (một cách sai trái) như lạm dụng, lạm quyền, lạm phát ... chữ lạm 濫 bộ thuỷ thường dùng hơn, thành phần HT là giam/giám 監. Theo Quảng Vận/QV, Tập Vận thì hai chữ lạm 㜮  濫 dùng tương đương.


 


2.5 Dâm 婬


 


Dùng như dâm bộ thuỷ 淫, như trong các cách dùng gian dâm, tà dâm, dâm dật, dâm dục, dâm nhạc, dâm thư ... Thành phần HT là 㸒 : dâm, chữ hiếm, ta thấy âm nhâm/dâm 壬 hài thanh ngay trong chữ này rồi. Kinh điển xưa thường dùng dâm 婬 như dâm 淫


 


朱骏声曰:“小尔雅广义:‘上淫曰婬,下淫曰报,旁淫曰通。


Chu Tuấn Thanh viết: “Tiểu Nhĩ Nhã Quảng Nghĩa:‘thượng dâm viết dâm,hạ dâm viết báo,bàng dâm viết thông


 


2.6 Lãn 嬾


 


Lãn là lười biếng, như trong cách dùng lãn công... Lãn bộ nữ là chữ hiếm có tần số dùng là 21 trên 171894734, bộ nữ còn có thể thay bằng bộ tâm 懶 thông dụng hơn với tần số dùng là 16583 trên 175865108. Thành phần HT là lại 賴 (lời). Tiếng Việt còn duy trì âm cổ hơn của lãn là lười. Một dạng tương đương của lãn 嬾 là 孄 (TV).


 


2.7 Đố 妒


 


Đố kị 妒忌 (ghen ghét) - đố còn viết là 妬. Thành phần HT thạch 石 : tiếng Việt còn duy trì một dạng âm cổ là đá so với âm đố (當故切 đương cố thiết/QV). Có nhiều chữ Hán dùng bộ nữ để chỉ sự ghen ghét, ganh tị ... Xem thêm các chữ liệt kê bên dưới.


 


【詩註】以色曰妒,以行曰忌


[Thi - Chú] dĩ sắc viết đố, dĩ hành viết kị


 


2.8 Tật 嫉


 


Tật là ghen ghét, đố kị, giận ... Thành phần hài thanh là chữ tật 疾 (ốm, bệnh).


 


2.9 Mạo 媢


 


Mạo là ghen ghét. Thành phần HT là mạo 冒, Vương Sung trong Luận Hành viết


 


妒夫媢婦 đố phu mạo phụ


 


2.10 Áo 㜩


 


Chữ hiếm áo (Unicode 3729) là ghen ghét, đố kị ... Thành phần HT là áo - âm áo 音奧 (TV). Chữ này hiện diện từ thời Tập Vận (năm 1037/1067), phản ánh phần nào tâm lí của đầu thiên niên kỷ II (và còn có thể cho đến ngày hôm nay) ỏ Trung Quốc, hay thành kiến về phái nữ, thêm bộ nữ vào chữ áo/úc 奧 để tạo ra chữ mới hàm nghĩa không tốt là ghen tị .


 


2.11 Thứ 㜘


 


Thứ (Unicode 3718) cùng nghĩa với đố 妒 (Bác Nhã/BN). Thứ còn có nghĩa là kiêu (ngạo) 驕 theo học giả Đoạn Ngọc Tài:  驕俗本作嬌 kiêu tục bản tác kiều.


 


2.12 Súc 㜅


 


Súc (Unicode 3705) có nghĩa là đẹp, nịnh và ghen ghét ... Thành phần HT là súc 畜. Súc 畜 là nuôi (dưỡng), thú vật trong nhà (lục súc 六 畜) hay còn có nghĩa  là tốt đẹp (好 hảo), nhưng khi thêm bộ nữ vào thì bắt đầu có những nghĩa không tốt như nịnh, ghen ghét ...


 


2.13 Giới 妎


 


Giới là đố kị (theo TVGT), phản phúc (Nhĩ Nhã/NN) - thành phần HT là giới 介. Nhĩ Nhã (Thích cổ) cũng ghi 苛,妎也 hà, giới dã - hà là ghen ghét, trách phạt, quấy nhiễu ...


 


2.14 Hiềm 嫌


 


Hiềm là ngờ vực, nghi ngờ ... thường dùng chung với nghi 嫌疑 (hiềm nghi). Hiềm cũng là khiểm 慊 (TV). Thành phần HT là kiêm 兼 (gồm, gom, gôm). Một số chữ Hán diễn tả tình cảm, trạng thái, thái độ ... có thể thay bộ nữ bằng bộ tâm như chữ lãn, hiềm chẳng hạn. Có tác giả cho rằng phái nữ thường bộc lộ tình cảm nhiều hơn phái nam nên mới có khả năng hoán chuyển bộ nữ và tâm như vậy (xem thêm các chữ lãn, mạn, tiều ...); để ý mạo bộ nữ 媢 là ghen ghét (kị, giận), còn mạo bộ tâm 

Bài viết cùng chuyên mục

Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh Lê Viết Nga cho biết: Bắc Ninh vừa phát hiện tấm bia đá có niên đại từ năm 314 đến năm 450 tại thôn Thanh Hoài, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành (Bắc Ninh). Đây...

Chiều 7/9, Bảo tàng Hà Tĩnh, cho biết trong quá trình sưu tầm, khảo cứu các hiện vật lịch sử văn hóa trên địa bàn xã Xuân Đan, H.Nghi Xuân (Hà Tĩnh), nhóm nghiên cứu của bảo tàng này vừa phát hiện,...

Hãy xem từ cái Nôi khái niệm “Sông”:<br /><br />Krông = Kông = Sông = Tông 宗 = Dòng = Dõng 涌 = Giang 江 = Kang = Kênh = Kinh 泾= Linh 泠 = Lối = Lộ 潞 = Lạc 洛= Lạch = =Rạch = Mạch 脈 = Ngách = Ngòi =...

Tìm nguồn gốc dân tộc là khát vọng truyền đời của người dân Việt.

Lịch sử Bách Việt chứng tỏ không kém phần phong phú khi được hé lộ qua kỹ thuật đúc gươm, trống đồng...

<br /> Từ Hán Việt (HV) là kết quả rất tự nhiên sau bao nhiêu thế kỷ bị người Hán đô hộ cũng như sống bên cạnh nhau: đây là những từ gốc Hán thâm nhập vào và làm vốn từ Việt thêm phong phú.

Cùng tồn tại với bãi đá cổ ở Sa Pa (Lào Cai), những hình khắc bí ẩn từ nghìn đời nay ở bãi đá cổ Xín Mần (Hà Giang) đã đi vào tín ngưỡng với tục thờ đá của người dân địa phương. Những hình khắc một...

Luật Pháp ( 09/03/2012)

Luật Pháp : Từ ghép này xuất xứ từ công nghệ Bánh Chưng, lúc đầu chỉ là để chỉ các công đoạn cụ thể, sau nâng ý trừu tượng hóa thành từ “luật pháp”. Khi gói xong bánh chưng thì dùng Lạt để Buộc....

Nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày thành lập Đại học Sơn Đông - một trong những trường đại học lâu đời và có uy tín nhất ở Trung Quốc, trong 4 ngày từ 13 đến 16 tháng 10 năm 2011 tại thành phố Tế Nam...